Trong lịch sử bình luận thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà phê bình Lê Huy Oanh tạo ra mấy điểm mốc đáng nhớ. Trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền (năm 1973), Lê Huy Oanh nhắc lại mình từng chê bôi, thậm chí mạt sát tập Tôi không còn cô độc đến như thế nào. Bài viết ấy giờ không dễ tìm, nó nằm trên tạp chí Sinh Lực, ấn phẩm nằm dưới sự điều hành của Võ Văn Trưng (chủ nhiệm) và Tôn Nhật Huy (chủ bút). Nên nhớ bài viết dưới đây (toàn văn) đăng không lâu sau khi Tôi không còn cô độc được ấn hành.
Đọc “TÔI KHÔNG CÒN CÔ-ĐỘC” của Thanh-tâm-Tuyền
Lê-Huy-Oanh
Giữa lúc này, người ta khao khát một tập thơ hay, như những
kẻ lạc lõng trên sa-mạc thèm muốn một gốc dừa xanh bên hồ nước. Thơ
Thanh-Tâm-Tuyền ra đời trong khi bao người đang chờ đợi một thi nhân có tài.
Chúng ta vui-vẻ đón con người đó, hy-vọng sẽ thấy trong thơ chàng một nguồn
rung cảm mới, một nghệ-thuật cao đẹp.
Tôi không muốn đọc cuốn “Tôi không còn cô độc” quá trơ trẽn. Tôi thắp lên hai cây nến trắng.
Chuông đồng-hồ thong thả điểm 2 tiếng. Ngoài cửa sổ, con đường vắng trải nhựa
đen im lìm dưới ánh đèn đêm thấp-thoáng. Trời hơi lành lạnh.
Tôi ưa chọn giờ để đọc thơ - nhất là đọc một tác phẩm mà tôi
trót gửi vào đấy biết bao nhiêu hy vọng. - Kể ra như thế cũng hơi cầu kỳ, cái
cầu kỳ của những người yêu thơ.
Tôi bắt đầu lần giở những trang giấy thơm tho một cách thành
kính. Một trang, hai trang, rồi chín, mười trang… Tội nghiệp chưa, đầu tôi nóng
bừng; có lúc tôi bàng hoàng như vừa ngã từ mấy từng lầu cao xuống hố bùn đen:
thật khó mà tìm thấy cái hay của thơ Tự-do - một thứ tự-do kiểu Thanh
Tâm-Tuyền!
Lật về trang giấy sau bức chân dung tác giả, tôi đọc đi đọc
lại mấy hàng chữ đầu tiên mà tôi bắt đầu e ngại rằng đây chỉ là những lời ngạo
mạn:
………
Để cai trị tôi có
những luật lệ tinh-thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ
Tôi định ném cuốn sách ra cửa sổ thật, vì lúc đó, tôi có
cảm-tưởng đã gặp phải một người khùng. Kể cũng lạ. Độc giả, yêu thơ đi tìm thơ,
nghệ-thuật không thấy, thấy một chiếc ngai lạ kiểu, trên đó sừng sững một quái
thai: Ông Hoàng Thanh-Tâm-Tuyền. Ông
kêu lên những câu nghe rất chối tai, có lúc lại hoàn toàn vô nghĩa và ông bảo
đó là thơ: một thứ thơ không cần vần,
không cần âm điệu và cũng chẳng cần để ai hiểu!
Có một lúc tôi không dám phán đoán thêm nữa. Tôi lặng-lẽ
nhìn ngọn lửa nến đang leo lét cháy không sao thoát khỏi cái lưới thắc-mắc, tôi
cho rằng chỉ đọc một lần thì chưa thể nhận thức nổi những tinh-hoa của lối thơ
này. Tôi hơi hối-hận vì đã không kìm nổi giận-dữ. Lòng dịu lại đôi chút, tôi ép
má vào song cửa sổ, mặc cho gió lạnh ùa vào mặt. Cuốn thơ mầu trắng oái oăm kia
nằm lệch trên bàn. Tôi trân-trối nhìn nó và tự hỏi: “nó đã lừa cảm giác tôi hay chính tôi đã lừa cảm giác tôi?”
*
Suốt một tuần lễ sau tôi đọc lại cuốn thơ này. Một tuần lễ
có bẩy ngày, tôi đọc lại nó tới hơn ba lần. Nghĩ mà thương cho tôi, có những
đêm quá khuya, tôi vẫn còn cặm cụi trước những dòng chữ quái đản:
Tại sao em thích gọi
tên hoa
Nào ngày mai của chúng
ta buông từng cánh
Xuống vai trần
Viền cỏ
Bông tóc nâu
Em sẽ gọi tên anh
Mùa hoa hôm nay
Nhưng thời gian đã ngả
vào lòng vô định
Chút sữa huệ ấm đời
thiếu tiếng chim
Cánh hồng ngọt không
gian tàn phá
Những thời gtan [sic] không rời nhau mang đến bao nhiêu mùa
Dạy em yêu phía sau
cửa sổ
Thiếp điên trong chuỗi
dài giấc ngủ
Rất vui
………
(Trang 32, HOA)
Tôi lật xuống những trang dưới, đọc tiếp.
………
Tôi ru chim ngủ trong
cổ họng
Mặt trời kêu xuống
thái dương những màu ánh sáng thơm
Tim kinh ngạc
Đời tạo câu cười thiên
nhiên mãi
Hy vọng đứng ra ngoài
ô ngục, ngực bâng khuâng
Lần gặp gỡ thứ nhất
Rồi kỷ niệm kim khí
thủy tinh hành hạ
Đau xé trời đêm không
sao bánh máy quay vũ khí
Tôi chối từ giam cầm
chim đẹp trong rừng tóc
Dù tiếng hót đã chạm
mấy hàm răng
Người bộ hành cô đơn
chờ đêm để lên đường
Về quá khứ
Chim bay vào trận mưa
sao
(Trang 46 - CHIM)
Trời ơi! đã trót yêu thơ thì tôi đành gian-díu [sic] với thơ chứ cứ đọc mãi cái điệu thơ
này rồi cũng đến loạn óc mất thôi. Thi ca lập dĩ đến thế là cùng. Người ta bỏ
hết dấu, người ta vứt vần xuống gót chân thô bạo, người ta cố tình ép uổng cho
ý tứ thành bí hiểm: không phải người ta làm thơ mà định giết chết thơ. Hành hạ Nàng thơ đến như vậy thật dã man
hết chỗ nói. Ấy thế mà Thanh Tâm Tuyền còn kêu là thơ anh bắt nguồn từ ca
dao; ở trang 42 anh viết:
Không đa đa siêu thực
Thẳng thắn
Khởi từ ca dao sang tự
do
Tôi ngờ rằng Thanh-Tâm-Tuyền nói dối. Âu cũng là một
mánh-khóe lòe đời của những người cuồng chữ. Bảo rằng thơ anh chuyển từ ca-dao
sang thì quả là định làm hại cái hay mộc mạc nhưng đầy vẻ quyến dũ [sic] của ca-dao. Ca-dao là một thứ văn
chương bình-dân, đơn giản, phóng khoáng, sáng-sủa biết bao nhiêu, sao lại có
thể chuyển nó sang một lối thơ “hũ nút”
như vậy được.
*
Thật ra, tôi vẫn mến Thanh-Tâm-Tuyền vì anh là một
thanh-niên tha-thiết với cách-mạng và anh đã muốn dùng thơ để ca-ngợi
cách-mạng.
Nhưng nếu định dùng một lối thơ lập-dị để phát huy và
truyền-bá tinh-thần cách-mạng, tôi e rằng khó mà thành-công. Tinh-thần
cách-mạng cần được phát huy bằng những lời thơ sáng-sủa, nhịp-nhàng, giầu
âm-điệu hơn.
Hình-thức của thơ càng linh-động, càng hấp dẫn, càng có năng
lực làm người ta rung động; hình thức bí hiểm, tư tưởng cũng thành tối om, làm
sao nó gây được ảnh-hưởng trong lòng người đọc.
Tôi không phủ nhận vai trò cần thiết của sự tự-do trong thơ,
nhưng tôi chủ trương sự tự-do đó không tuyệt đối, nó phải được giới hạn trúng
mức truyền cảm. Giới hạn đó không bắt buộc đứng yên một chỗ; nó có thể biến
đổi, di-động tùy theo không gian và thời gian, tùy theo vài sáng-tạo của mỗi
thi sĩ. Sự thực, chúng ta chẳng cần bàn nhiều về nó, ở đây, ta chỉ cần nêu ra
một kết luận hết sức đơn giản:
“Thi sĩ có toàn quyền
định giới hạn cho sự tự do trong thơ ca của mình miễn làm sao thơ của họ phải
đạt được mục đích chính yếu là truyền cảm. Thiếu tính chất truyền cảm nó hết là
thơ”.
Buồn thay, đọc thơ Thanh-tâm-Tuyền ta hầu như không thấy
tính-chất truyền cảm có nghĩa là ít khi ta thấy rung động mà phần nhiều chỉ
thấy bực mình vì thơ.
*
Tuy nhiên, nếu cố giữ bình thản để đọc thơ anh, ta cũng tìm
thấy đôi chỗ tạm gọi là nghe được. Những giòng hiếm hoi đó nằm trong vài bài
thơ tương đối đỡ kỳ-quặc hơn. Bài TRƯỜNG-THÀNH
(trang 18) đã khiến ta súc cảm [sic]
nhờ ý tưởng nồng nàn của tác giả:
Anh biết vì sao Cộng-Sản
thủ tiêu Khái-Hưng.
Mỗi lần hoàng hôn tôi
bước cùng đám đông
Lòng khẫn cầu [sic] cách mạng
Anh biết vì sao
Cộng-Sản thủ tiêu Phan-văn-Hùm
Mỗi lần hoàng hôn chạm
mặt từng người
Có phải chúng ta đang
sửa soạn
Anh biết vì sao
Cộng-Sản thủ tiêu Tạ-thu-Thâu
Mỗi lần hoàng hôn tôi
cố thở cho nhiều
Các anh nhớ tôi còn
sống
Quờ quạng tay dan díu
Cách-mạng nổi trong sự
nín thinh.
………
Mỗi lần hoàng hôn tôi
chỉ là người văn-nghệ bé nhỏ.
Hoặc tôi câm mồm hoặc
tôi thét la.
Mặc chúng dụ-dỗ mặc
chúng dọa-nạt
Chúng sợ cách mạng vô
cùng.
………
Bài “MƯA NGỦ”
(trang 48) gợi cho ta tính chất quyến dũ [sic]
của một thứ “poème en prose” của
Baudelaire (1).
Mấy bài thơ này khiến tôi nghĩ hoài về Thanh-tâm-Tuyền tuy
tôi đã cất cuốn “TÔI KHÔNG CÒN CÔ ĐỘC”
vào ngăn tủ. Tôi tin rằng, nếu anh chịu rời bỏ lối thơ kỳ-quái hiện nay của anh
để nhận lấy một lối thơ hợp lý hơn, thơ anh sẽ có nhiều triển vọng. Anh là
người giầu tình cảm, giầu lòng yêu nước, thèm khát TỰ-DO và có óc tưởng-tượng
thật phong-phú. Tiếc thay, cái tính ưa lập-dị của anh đã phản anh đã bóp nghẹt
mất cả một hồn thơ rộng mở trong anh.
Tháng giêng 1957
(1) Ngoài ra, trong tờ sáng tạo số 4 [sic], ra hồi đầu tháng giêng 1957, ta còn được thưởng thức một bài
nhan đề:
HÃY CHO TA KHÓC BẰNG MẮT EM,
NHỮNG CUỘC TÌNH DUYÊN BUDAPEST.
Với ý tưởng tân kỳ, bài này cũng được một số người thích,
(trích nguyệt san Sinh Lực, số 9, 1/3/1957, tr. 78-82)
-----------
Tập thơ Tôi không còn cô độc:
Phần 1
Phần 2
Người chê Tôi không còn cô độc dữ nhất, là Trưởng Lão Hà Thượng Nhân, trên mục Đàn Ngang Cung của ông, ở nhật báo Tự Do. Lê Huy Oanh sau viết cho Sáng Tạo, HTN sau là sếp của TTT, ở Tiền Tuyến, họ rất thân với nhau. LHO khi viết cho ST, có truyện ngắn Hồi Chuông Báo Tử tuyệt lắm
ReplyDelete"đất ta là của ta
ReplyDeleteđừng ai hòng cắt xẻ
chúng ta thương yêu nhau
cùng là con một mẹ
chiếm lại trọn đất đai
xoá sạch oán thù
nhường nhau là hết nói
ôi hai mươi
nhân loại trẻ như hoa búp
con về dựng lại cửa nhà
trẻ con đi học trên đường rộng
chữ đầu tiên em học là gì
thưa yêu "
Very Lovely and Noble and very Kind of the King of Poetry!
Hey NhiLinh, like your "Hat Co Ban", Four Eyes Boy, waiting for the new ones. Thanks.
GioChuong
“nồng nàn” cũng như “thanh xuân” có từ nào thay thế không anh, mà sao giờ thấy ít người viết dùng?
ReplyDeleteNồng nàn cảm ơn anh!