Jun 25, 2020

Tôi yêu đêm

Tôi yêu đêm. Đấy là những giờ quý báu nhất trong thời biểu một ngày mà một người biết nói thầm với một người. Tôi sống cuộc đời tiềm-tàng của tôi vào lúc khí âm thịnh.

[đã tiếp tục "Chroniques HN: một phố" và cũng đang tiếp tục "Casanova" cùng "Cao Hải Hà"]

Có nhiều đêm, tôi lại không ngủ, không phải để nghiền ngẫm tư tưởng chứa trong trang sách, hay là biên chép ý nghĩ vụn của mình trên mảnh giấy. Dưới ngọn đèn, tôi chỉ thức để không ngủ, để ngắm bóng tôi in hình đen trên tường tối. Và như thế thỉnh thoảng tôi lắng thấy tiếng của những ngày chết dội về. Trong phút nói chuyện với bóng, gợi lớp tro lòng nguội, tôi thấy đêm không ngủ có một vẻ đẹp thần bí nếu tôi lại được ngửa mặt lên trần nhà mà hút thuốc lá. Khói thuốc càng đầu độc mấy thước khối không khí trong phòng hẹp bao nhiêu, thì trong sọ tôi, đám rước của kỷ niệm càng kéo đông và không ngừng bấy nhiêu. Người xưa, thắp đuốc đi chơi đêm để làm cho dài thêm cuộc đời ngắn ngủi. Tôi, sống những đêm trắng, hút thuốc lá để cho đời tâm tưởng được nhiều và rộng. Hay ít ra, tôi đã nghĩ như vậy. Khói thuốc lá có công to giúp tôi nhận rõ được tôi, trong khi tôi âm thầm, rủ rỉ ngồi chơi với tôi, lắng hồi mõ điếm giao canh hay tiếng gà gọi con nước lên. Tôi thức đêm để hút thuốc lá. Tôi hút thuốc lá để thức đêm. Việc này đã thành một thói quen từ khi tôi được biết rằng thằng người ngoài việc ăn ngủ, còn phải thỉnh thoảng tưởng nhớ. Có ai dám nói là mình vốn không có dĩ vãng. Đêm đêm, đống tro lòng tôi đã dịch chỗ từ trái tim sang cái gạt tàn thuốc ngổn ngang mẩu thuốc, tàn diêm có lót một lớp tro xám. Ngồi thẫn thờ cho tâm hồn bay theo khói thuốc bổng nhẹ, tôi sống cùng ký ức. Trong khi thở thuốc phì phèo, tôi lấy chất khói để chép nhật ký đời tôi. Và tôi nhận thấy cái trống trải, hiu quạnh của lòng giữa sự ồn ào ban ngày đã được đền bù lại bằng cảnh tĩnh mịch của đêm dài ngồi hút thuốc lá. Rồi tôi đâm yêu khói; thèm khói lúc thiếu nó, nhớ nó lúc vắng. Khói đã trở nên một nhân tình cần thiết cho tôi. Tôi đã yêu khói dưới một tập hình thức của nó. Luồng khói than bánh của đoàn tàu hỏa trên nội cỏ; luồng khói than đá của con tàu bể trên mặt nước động; luồng khói ét-xăng trong đám bụi bay trên đường cái quan; và luồng khói thơm tho của quán cơm sau một ngày đi bộ mệt nhọc. Những luồng khói ấy tự do trên những khoảng trời vô hạn; còn có những thứ khói bị bó buộc trong gian phòng chật hẹp kín bưng như là khói thuốc lá, khói thuốc lào, khói thuốc phiện, khói lư trầm. Rộng, hẹp, cao, thấp, có khác nhau, nhưng tất cả khói đều cảm tôi một cách thấm thía. Chúng nó tiêu biểu những cái gì gọi là nhẹ nhàng, là tinh túy, là không chịu đứng yên một chỗ, là đè lên trên mọi cái thấp là là, lè tè. Khói gợi cho người ta cái hình ảnh của thoát ly và gây một lý tưởng cho kẻ bực dọc với hiện tại mong đi gấp đến chỗ tận thiện tận mỹ.

Tôi muốn kêu lớn: Khói muôn năm!

Trong đời không thường, không định của tôi, sự thiếu thốn về ăn mặc nhiều khi không gay go bằng sự thiếu hút. Bởi vì một người không đến nỗi đo chai nước mắm, đếm từng củ dưa hành như tôi, lắm lúc đã phải lấy cân tiểu ly ra cân từng dúm thuốc. Có khi suốt một tháng ròng, tôi đã phải dè dặt từng bao thuốc, dành dụm từng điếu thuốc. Lắm lúc bần thần cả người vì thiếu thuốc hút, tôi thấy tôi hèn yếu quá và tự nhủ lòng sao không bỏ phứt cái tật xấu nhỏ ấy đi như một số đông đốc-tờ đã coi thuốc lá là kẻ thù. Thêm một thị dục là thêm một cớ khổ não. Có như thế, Giáo lý đạo Phật, ở trường hợp nào thì không biết, chứ ở vào việc thuốc lá tôi thuật đây đã rõ ràng lắm.

Cái khổ não này, tôi đã được nếm đến tàn nhẫn trong những ngày làm trò hát bóng nói ở Hương Cảng. Tôi đã sống nhiều đêm trên đảo với tấn thảm kịch thuốc lá.

Trước tôi, nhiều người đi Hongkong về đã gặp lại tôi với một câu:

- Qua bên ấy ốm vì hút xì-gà.

Sự thực quả có như vậy.

Trong mấy bữa đầu tiên ở Hongkong, điếu xì-gà không rời miệng tôi lúc nào. Mở mắt ra là đã hút xì-gà, trước cả món ăn điểm tâm. Hút cả đêm, hút cả ngày. Và không mấy khi, tôi hút điếu thuốc quá ngấn nhẫn vàng; điếu thuốc cháy độ một phần là đã quăng. Cái lối xa hoa này, có riêng gì mình tôi. Trong đoàn tài tử, - ngoài đám phụ nữ ra - (!) ai cũng đều hút xì-gà một cách hoang phí như vậy. Có khi chúng tôi lại mang cả xì-gà vào chuồng tiêu, đốt không điếu thuốc lên để khói thơm đánh át mùi hôi rồi mới chịu giải thoát cho cái bụng. Ở đây, thuốc rẻ mà lại! Cho nên người ta hút xì-gà như người Huế hút thuốc giấy ở bên quê hương. Thật là hút lấy được. Của rẻ có khác. Người ta hút, nếu không để lấy chết thì cũng để tự hào với người quen rằng có lần mình đã suýt lụy vì khói xì-gà. Buổi tối ăn cơm xong, đến xưởng quay phim để đóng trò, đoàn tài tử Việt Nam đã được người Tàu chú mục. Mỗi tài tử bước chân vào hãng quay phim với một điếu xì-gà ở miệng, cục tàn lửa to bằng hòn than hoa đỏ! Người ta không đếm xỉa gì đến những tấm biển yết trong xưởng: “No smoking” nghĩa là “cấm hút”. Người ta quên cả lịch sự, thở mãi khói vào mặt đàn bà Tàu. Nếu có người nào phải quăng nửa điếu xì-gà cháy dở, là vì họ rức đầu, chối, ngấy khói mà bỏ hút đó mà thôi!

Ấy thế rồi một ngày nọ, điếu xì-gà đã lấy được cái giá trị cũ của nó. Với đồng tiền cạn dần, chúng tôi đã biết quý điếu thuốc dù nó có rẻ như bèo. Và điếu thuốc to quấn cả lá đã nhường chỗ cho điếu thuốc sợi nhỏ li ti quấn trong giấy. Chúng tôi đã bắt đầu tính đếm đến từng điếu thuốc một. Với cái hiếm hoi của đồng tiền, người ta lại dè sẻn cả đến tấm lòng. Và từ chỗ bủn xỉn tấc lòng đến chỗ biển lận về tiền, chỉ có một gang tấc. Cái người đầu tiên khởi việc giấu giếm gói thuốc để dùng riêng một mình, cái người đầu tiên từ chối người bạn xin điếu thuốc bằng một câu nói ngượng nghịu, cái người đó lúc đầu còn thấy hơi thẹn với mình. Nhưng trong lúc khan tiền và đông bạn và điếu thuốc lá là sự cần dùng lớn như thế, lòng vị kỷ là một giọt dầu cứ thấm lan mãi. Rất đỗi, về sau, trong bọn, không ai dám chê, dám trách nhau là coi một điếu thuốc trọng hơn tình ràng buộc của một đoàn thể nghệ sĩ. Điếu thuốc đã xui người ta ăn gian nói dối cả với bạn hiền. Nếu người đó còn biết tự trọng, thì một đôi khi lại tự an ủi mình rằng đấy chẳng qua cũng là thường tình của con người ta. Với luận điệu viện ra đó, cái thằng người tầm thường kia đã không bị lương tâm cắn rứt sau khi lánh mình ra nơi vắng, úp mặt vào tường, hít hơi khói cuối cùng của mẩu thuốc ngắn không còn chỗ cầm nữa.

Nói ra thương tâm lắm. Nếu ông không phải là người nghiện thuốc lá đã có đêm không đọc nốt được một cuốn sách hay mượn phải trả vội ngày mai, vì chưng hết thuốc hút, thì nên ngừng lại và coi cái thiên truyện này là không có. Và đừng đọc tiếp.



(Nguyễn Tuân, "Dúm cỏ tương tư", Một chuyến đi)




rất liên quan: xem ởkia



Hương Cảng Lý Thương Ẩn
Tại sao Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân: tiểu thuyết Quê hương
"Anti-paradoxes"
Lại Chùa Đàn
Nguyễn Tuân không
Khái Hưng Nguyễn Tuân
Văn chương Nguyễn Tuân: hai khía cạnh
Nguyễn Tuân đọc sách (tiếp nữa)
Chateaubriand
Chùa Đàn
Nguyễn Tuân đọc Kiều
Cát bụi chân ai
Khái Hưng vs Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân đọc sách (tiếp)
Nguyễn Tuân đọc sách
Một truyện ngắn của Nguyễn Tuân
Văn chương của đứt đoạn
Tâm sự của nước độc


No comments:

Post a Comment