Một tác phẩm rất lạ:
Một cuốn "xã hội tiểu thuyết" do Nhật Nam thư xã ấn hành vào năm 1934, một niên đại rất lạ.
Một số hình ảnh bên trong sách:
Ngay ở đầu sách có bài "Cô hàng hoa", có lẽ là bài thơ nổi tiếng nhất của Nhượng Tống, mà ta thấy Trúc Khê Ngô Văn Triện bình luận trên Văn học tạp chí.
Có ghi rõ tên Nhượng Tống. Sách dày chưa tới 40 trang. Hiện tượng này cần được tìm hiểu thêm:
(nguồn hình ảnh: nhà sưu tầm Nguyễn Ngọc Hoài Nam, hết sức cảm tạ :p)
Những quyển sách dịch của Nhượng Tống hồi trẻ, cuối thập niên 20:
Đây chính là Ngọc lê hồn của Từ Chẩm Á. Nhượng Tống là một trong những người đầu tiên dịch Từ Chẩm Á ở Việt Nam. Trước đó, Tuyết hồng lệ sử đã được dịch đăng Nam phong, nhưng sau đó rồi các cụ nhà nho mới nhận ra, Tuyết hồng lệ sử là tác phẩm sau của Ngọc lê hồn, được viết dưới dạng nhật ký để kể lại một lần nữa câu chuyện của Mộng Hà, tức là câu chuyện của Ngọc lê hồn.
Tác phẩm trên đây từng được Nhượng Tống đăng dài kỳ trên tờ Thực nghiệp dân báo.
Và đây nữa:
Sau 1945 cũng có một số thứ rất hiểm hóc. Ví dụ cuốn sách này:
Còn đây là Nhượng Tống dịch Liêu Trai chí dị đăng trên một tờ báo sau 1945:
(courtesy of VHT)
Dưới đây là danh mục tác phẩm Nhượng Tống do tôi lập ra, được cập nhật liên tục sau mỗi phát hiện mới:
Nhượng Tống
có hai giai đoạn trước tác rõ ràng: thập niên 20 và thập niên 40. Trong những
năm 30, Nhượng Tống gần như không hề xuất hiện trên văn đàn.
Nhượng Tống
có bài đăng trên báo Khai Hóa từ rất
sớm, năm 1922 khi ông mới 16 tuổi (việc này đã được kể lại trong cuốn tiểu thuyết
Lan Hữu). Sau đó là quãng cộng tác với
tờ Thực nghiệp dân báo, ví dụ trong
năm 1924 có các bài “Nên đặt thêm hai kỳ Đấu xảo Canh nông”, “Chủ nhật thăm mộ”,
“Nhân công ở ta tại vì đâu mà thiếu”…
Cuối thập
niên 20 là giai đoạn Nam Đồng thư xã. Vì Nam Đồng thư xã có mục đích chủ yếu là
tuyên truyền, nên nhiều khi không rõ được tác giả của từng tác phẩm, ngoài một
số trường hợp đặc biệt. Nhượng Tống là yếu nhân của Nam Đồng thư xã, nên chắc
chắn các ấn phẩm ở đây đều có bàn tay chăm sóc của ông. Dưới đây là danh mục
sách của Nam Đồng thư xã:
- Gương thiếu niên: thứ I, II, III, IV, V
- Dật Công, Mộng Tiên (Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm) dịch (1926-1927 - 5 fasc.
73 p. ; 0$10 mỗi cuốn)
- Sóng hồ Ba Bể, Thuần Phong Phạm Bùi Cầm
(1926 - 2 fasc. 147p. ; 0$50) (Impr. Nguyên Hàn)
- Tiểu sử và học thuyết Tôn Dật Tiên
(1927, In lần thứ 2 - 34 p. ; 0$10)
- Tiểu sử và học thuyết Tôn Dật Tiên
(1928, In lần thứ 3 - 30 p. ; 0$10)
- Tân Hán: thứ I, II, III, IV - Thạch Bằng
dịch (1926 - 4 fasc. 97 p. ; 0$10 mỗi cuốn), truyện cách mạng nước Tàu (Long
Quang ấn quán)
- Gương thành bại (sách bị cấm không được
bán ở địa hạt Bắc Kỳ)
- Trưng Vương, cuốn thứ I, II - Nhượng Tống
(1927 - 2 fasc. 39 p. 70 p. ; 0$10 mỗi cuốn), thế giới đệ nhất nữ anh hùng (Kim
Khuê ấn quán)
- Một bầu tâm sự - Trần Huy Liệu (1927 -
41 p. ; 0$30) (Impr Bảo Tồn)
Cùng ở giai
đoạn thập niên 20 này, Nhượng Tống còn có các tác phẩm:
- Dường như
Nhượng Tống có vai trò nhất định trong ấn bản Lo nước thương dân của Nguyễn Thượng Hiền, nhà Minh Trân, 1926;
cũng cuốn sách này được tái bản trong năm 1926 dưới nhan đề Một tập văn lo nước thương dân của cụ Nguyễn
Thượng Hiền. Có bài tựa của cụ Phan Chu Trinh, Imprimerie Chân Phương
- Dưới hoa (tức Ngọc lê hồn) (dịch), nhà in Long Quang, “Vạn quyển thư lâu”, 1928
(in lần 2)
- Bả phồn hoa (dịch), Vạn quyển thư lâu,
1928
- Chị cùng em (dịch), Vạn quyển thư lâu,
1928 (trước đó Nhượng Tống đã dịch tác phẩm này đăng nhiều kỳ trên Thực nghiệp dân báo)
Như ở trên đã
nói, trong thập niên 30 gần như không thấy tên Nhượng Tống xuất hiện trên các ấn
phẩm, tuy nhiên rất có thể Nhượng Tống có bài in trong cuốn sách Đời trong ngục và là tác giả cuốn “xã hội
tiểu thuyết” mang tên Cô hàng hoa;
trong cuốn Cô hàng hoa này có in bài
thơ “Cô hàng hoa” của Nhượng Tống.
Giai đoạn thập
niên 40:
- Lan Hữu (tiểu thuyết), Lê Cường, 1940
- Mái Tây tức Tây sương ký (dịch), Tân Việt, 1943
- Sử ký Tư Mã Thiên (dịch), Tân Việt, 1944
- Ly tao (dịch), Tân Việt, 1944
- Thơ Đỗ Phủ (dịch), Tân Việt, 1944
- Nam hoa kinh (dịch), Tân Việt, 1945
- Lam Sơn thực lục (dịch, bút danh Mạc Bảo
Thần), Tân Việt, 1945
- Đại Việt sử ký toàn thư (dịch, bút danh
Mạc Bảo Thần), Tân Việt, 1945
- Tân Việt cách mệnh đảng, Việt Nam thư
xã, 1945
- Nguyễn Thái Học (1902-1930), Việt Nam
thư xã, 1945
- Hỗ trợ. Thảo luận (tức là “thảo luận về
việc hỗ trợ”), Việt Nam thư xã, 1945
- Hương ngọc (dịch), Tân Việt, 1947
- Trời Nam mưa gió (ca kịch), Thời sự,
1949
- Thượng thư (dịch, in sau khi Nhượng Tống
đã chết), Tân Việt, 1963
Nhượng Tống đăng nhiều
thơ trên tờ Hà Nội tân văn bắt đầu ra
từ năm 1940. Nhượng Tống còn giúp Thi Nham Đinh Gia Thuyết hiệu chỉnh và dịch
thêm Ức Trai tập - tác phẩm mới chỉ ở
dạng bản thảo; có tài liệu cho biết ông từng dịch cả Hồng Lâu Mộng, Đạo đức kinh,
thậm chí cả cuốn thứ sáu của “Lục tài tử thư” là Thủy hử. Năm 1947, dịch một ít Liêu
Trai chí dị đăng trên báo Nguồn sáng.
Trước tác của Nhượng Tống còn rải rác trong một số tuyển tập giờ đây ít người
được biết đến như Tản văn mới của
“Thư viện Tố Như” trước 1945.
Năm
1946, cũng trên báo Chính nghĩa, Nhượng
Tống đã viết một loạt bài về các nhân vật cách mạng, chủ yếu là đảng viên Việt
Nam Quốc dân đảng, nhưng cũng viết cả về những người như Phạm Hồng Thái hay Lê
Cần. Loạt bài này có lúc không ký tên, có lúc ký T. hoặc NT. Ta có thể xác định
được đây là các bài của Nhượng Tống nhờ so sánh văn phong và nội dung với cuốn Nguyễn Thái Học.
Lan Hữu trở lại
Lan Hữu trở lại
Bả Phồn Hoa họ in 3 tập phải không bác ?
ReplyDeleteHàng Hoa, Đèn Hoa, Dưới Hoa,… của con người cách mạng NT. Cũng trong ý đó, đợi được đọc Lẩn thẩn- các bài báo của Khái Hưng
ReplyDelete